Nhiếp ảnh cổ điễn có 4 thể loại chính, đó là: 1 là Phong cảnh 2 là Chân dung 3 là Hoạt cảnh 4 là Tỉnh vật.
Lý thuyết về kỷ thuật, tiêu chí mỹ thuật và đòi hỏi thao tác dụng cụ khác nhau cho mỗi thể loại.
Có những lãnh vực chuyên môn như: ảnh thể thao, ảnh loài chim thú, ảnh cận cảnh thí dụ như hoa cỏ hay côn trùng, hiện vật v.v... không ảnh bằng máy bay điều khiển từ xa, ảnh chụp kiến trúc của loài người dựng nên... và nhiều ứng dụng khác. Các lĩnh vực hay chuyên ngành này vẫn đều rơi vào 4 phân loại trên về lý thuyết thực hành. Sự trùng lấp thể loại là thường gặp, thí dụ ảnh thể thao là kết hợp thể loại hoạt cảnh+phong cảnh và còn có thể cả thể loại chân dung (vận động viên).
Tấm hình là một của sổ vào không gian. Cửa sổ này là ảo, không tùy thuộc vào kích thước của tấm giấy hay của màn ảnh, mà tùy thuộc vào lượng thông tin đo bằng diện tích không gian thực tế được thu vào cửa sổ này. Cơ phận quyết định diện tích này là ông kính của máy ảnh của bạn, thông số tên là tiêu cự. Đi đôi mật thiết là thông số quyết đinh ánh sáng của hình là khẩu độ tối đa.
Tiêu cự tính bằng mm.
Máy ảnh hiện đại là hậu thân của phòng tối sơ đẳng (Eng. camera obscura), thâu nhỏ lại thành một hộp tối với một cái lỗ nhỏ cho ánh sáng vào. Ánh sáng soi lên một mặt phẳng là một tấm phim hóa học ghi lại ánh sáng đó. Tấm phim này ngày nay được thay thế bỡi một miến cảm ứng quang điện tử.
Khoảng cách giữa lổ cho ánh sáng vào và mặt phẳng ở đáy hộp tối gọi là tiêu cự. Đó là chiều dài f1 và f2 trong sơ đồ tác giả vẽ ra dưới đây.
Góc nhìn thấy tối đa của mắt người là chừng 120 - 110° [phụ chú 1^]Tư duy con người từ vạn cổ đã biết loại ra khỏi vòng chú ý những gì không cần thiết cho sự sinh tồn - thông tin vô ích, dư thừa chỉ làm mất chú ý và hại đến an toàn. Thí dụ là với góc độ này bạn phải thấy sống mũi và gò má của mình - đối với bạn mang kiếng thì còn là vành kiếng - nhưng không khi nào bạn ý thức là có các vật đó trong tầm nhìn.Từ đó bộ óc con người chỉ giữ làm thực dụng một góc chừng 60 độ (tiêu cự 35mm) đến 100 độ (tiêu cự 18mm), với vùng 50 độ là trung tâm chú ý. Phần ngoại vi của tầm đó chỉ có động tỉnh mới sẽ gây chú ý, còn hình thù và màu sắc thì bộ óc đã biết "lờ" đi từ nhiều trăm nghìn năm tiến hóa. Ngoài ra ở ngoại vi đó hình thù không còn sắc nét vì võng mạc còn ít tế bào cảm ứng.
Camera obscura, nguyên tắc cơ bản của một máy ảnh (và con mắt người). f1 = 50 mm cho góc độ là 50° là tiêu cự tự nhiên.
Hình dưới cho thấy tiêu cự f2 đươc kéo dài ra, tạo hiệu ứng telephoto: góc hình thu lại và đối tượng hiện hình lớn ra do tiêu cự f2 dài ra. Mắt người là một camera obscura với tiêu cự cố định dĩ nhiên, chừng 50° (mắt không thể zoom đươc).
Hình 2. : sơ đồ góc độ ngoài trời tương đương với tiêu cự máy ảnh tiêu chuẩn cổ điễn phim 35mm [2^]. Các con số bằng mm này chỉ có nghĩa trong nhiếp ảnh mà thôi. Các bạn thấy trên thực tế thì con số đo góc độ là thực dụng và hữu ích hơn con số mm dùng để đo tiêu cự - nhưng mà đó là truyền thống kinh điễn rồi, không sửa đươc! Các bạn chọn mua ống kính theo tiêu cự mm là chính, phải ý thức góc độ tương đương mà mua thôi.Các bạn thấy tiêu cự 135 mm (tương đương f2 trên kia =135 mm) cho một góc nhìn là 18 độ tức là rất hẹp làm hiện vật rất to. Tiêu cự 8 mm (ngắn thua f1 trên kia) thì sẽ mở góc nhìn ra 1/2 vòng tròn chân trời, là 180 độ, là góc từ vai trái qua vai phải của người chụp mà thưc tế mắt con người không bao giờ thấy đươc.
Hình 2.
Trên ống kính này số 50 mm là tiêu cự nhiếp ảnh. 1: 1.8 (hay 1,8 viết theo lối Âu) là thông số tượng trưng cho khẩu độ lớn tối đa của kính này. Con số này là lối đo con ngươi (Eng. diaphragm) của ống kính, xem dưới. Đây là một ông kính mà tiêu cự là nhất định, không thể thay đổi đươc, thương mại gọi là ông kính PRIME, prime lens. (Ngược lại là một ông Zoom, dưới)
Đây là một ống zoom, có nghĩa là người dùng có thể tự chọn tiêu cự từ 45 mm cho đến 200 mm. Người dùng có thể thâu hình một cảnh quan rộng (và cao) chừng 45°x 45° đến 10° x 10° từ cảnh quan ngoài hiện trường. Nói một cách khác đó là mức độ rộng hẹp của cửa sổ máy có thể đươc điều chỉnh để nhìn ra và thâu hình. Số 1:4-5.6 có nghĩa là khẩu độ của con nguoi của ống kính (tương đương với con người của mắt là từ 4 cho đến 5.6 . Tất cả ông kính trên thị trường đều có khẩu độ điều chỉnh đươc, nhưng chỉ có ông zoom mới có thể điều chỉnh tiêu cự. Xem tiếp về khẩu độ phần sau. Số
052 là vòng kính đo bằng mm để người dùng căn cứ mà mua các loại phụ kiện gắn (xoáy) vào ống kính như kính lọc, nắp che kính v.v....
Ứng dụng
I .Tiêu cự chụp phong cảnh là 18 mm đến 35 mm, ảnh ghi được bao phủ một góc từ 60 đến 100 độ (ở tiêu cự 18 mm là chừng 1/3 của vòng chân trời). Người xem hình phong cảnh thỏa mãn với từng ấy lượng thông tin về không gian mà hình muốn mô tả. Hẹp thua thì người xem sẽ linh tính tò mò về không gian phía trái và phải một, và sẽ không hài lòng (trong tiềm thức). Các bạn xem hình cảnh núi (số 8), hình này là phong cảnh nhưng tiêu cự lúc chụp chừng 50, là tiêu cự tự nhiên như bàn ở phần trên, và cảm thấy thiếu sót phần nào.
Nói như thế là tiêu cự chụp phong cảnh không nên là tiêu cự tự nhiên 50 mm, mà là nên ngắn thua, tức góc bao phủ rộng hơn. Mắt người xem ảnh một lúc nào thì vẫn chú trọng đến 1/3 diện tích ảnh mà thôi (mình sẽ tìm hiểu sau) nhưng linh tính vẫn muốn biết tối đa thông tin về không gian được cho xem. Cho nên loại ảnh panorama góc rộng có khi đến 180 vẫn không là dư thừa nếu bạn biết xếp đặt bố cụcTóm lại: ảnh Eng. landscape, phong cảnh, dùng tiêu cự 35mm và nhỏ thua (góc bao phủ 60 độ hay lớn hơn).
Đây là hình chụp một tòa nhà trong lúc du lịch tp Bordeaux ở Pháp ở cự ly (đứng) cách xa chừng 150 mét, với ông zoom kéo ra 14mm. Các ô trong là hình ảnh chụp đươc nếu điều chính tiêu cự đến các thông số đó (zoom lên xuống). Dưới đây là tấm hình chụp đươc nếu dùng ông kính 55 mm, tiêu cự tự nhiên. Các bạn thấy là thiếu sót nếu muốn truyền đạt về tòa nhà.
Tiêu cư 35 mm đủ thỏa mãn trong trương hợp này
Bờ biển California. Góc độ chừng 150° này hài hòa và thỏa mãn nhưng con mắt trần không thề nào thấy đươc. |
Tóm lại điều cần ghi nhớ:
- Tiêu cự nhỏ: góc bao phủ rộng, vật thể nhỏ.
- Tiêu cự lớn: góc bao phủ thâu hẹp lai, vật thể hiện to ra.
- Tiêu cự tự nhiên: Eng. Normal focal length: 50 mm.
- Trên máy compact (ông kính không tháo ra đươc) tiêu cự tự nhiên gọi là 1X.
II. Tiêu cự dùng cho chân dung là 80 mm, góc bao phủ là chừng 30° của hiện trường (xem hình 2.)
Chân dung là bức ảnh cho thấy được rõ ràng hình dạng khuôn mặt của 1 hay nhiều người, không thể nhầm lẫn với người khác và đủ chi tiết để người xem cảm nhận được ít nhiều tâm tư suy nghĩ lúc đó của người trong ảnh. Do đó chân dung không hạn chế ở đầu mặt hay thân trên mà thôi. Chân dung có thể bao gồm toàn thân và cả hậu cảnh.
Ảnh nguồn Nguyễn Trung Sơn, hdv du lịch
Với khoảng cách gần như bó buộc để chụp chân dung trung bình (xem những trở ngại trong bài về chân dung) tiêu cự 70-80mm là tiêu cự tối đa để chiều sâu của các điểm trong không gian đối với máy ảnh còn trung thực. Tiêu cự dài hơn nữa sẽ cho thấy các điểm gần và xa ống kính bị xích lại gần nhau, không gian sẽ bị bóp lại, thâu lại. Các bạn chú ý trong hình con đường ở Quảng Bình (hình sô 7.), các cột trắng bên đường gần thì cách xa nhau nhưng trong xa thì có vẽ gần nhau hơn. Đó là hiệu ứng telephoto.Kết quả cụ thể trên một chân dung chính diện, tiêu cự cao sẽ làm chân dung bị "dẹp" lại, phẳng lại, mất phần 3D (ấn tượng không gian 3 chiều), nói chung là sẽ bị méo mó it nhiều. Kinh nghiệm tập thể cho thấy 80mm là ống kính chân dung tối hảo.
75 mm
III. Thể loại hoạt cảnh, (Eng. scene). Một ảnh hoạt cảnh có sự hiện diện của con người trong môi trường sống tự nhiên thường nhật. Ảnh có thể có hình bóng 1 hay nhiều người, đang sinh hoạt tự nhiên và ngẫu nhiên, và ảnh hàm chứa một câu chuyện, cho dù là một câu chuyện rất ngắn, có thể kể chỉ bằng một câu viết. Tiêu cự 50 mm là tiêu cự tự nhiên tốt nhất cho thể loại scene, thể loại sinh hoạt con người, trong đời thường, tự nhiên, ngẫu nhiên. Phân loại gọi là (Eng.) Street photography là tiêu biểu nhất cho thể loại hoạt cảnh.
Bọn này nghỉ học đang tránh nắng gần bãi Cửa Lò gần tp Vinh
Đường đi bộ Nguyễn Huệ. 55 mm
IV. Tỉnh vật. Nhiếp ảnh tỉnh vật là cách chụp ảnh những vật vô tri bất động. Đây là thể loại mà người chụp gần như hoàn toàn chủ động được về mọi mặt, có thể dàng dựng hay ít nhất quyết định về bối cảnh, nền, ánh sáng, và trên nguyên tắc có thể tái tạo được nhiều lần.
Tiêu cự thường dùng là tiêu cự tự nhiên (50mm). Ống kính cơ bản bán chung với máy, gọi là kit lens, hay loại đi với hầu hết máy compact bỏ túi thường là khoảng 50mm. Tiêu cự này là đủ để chụp hầu hết tỉnh vật vì như trên nói, không bóp méo mục tiêu như tiêu cự lớn (cảnh) hay nhỏ (tele). Tiêu cự tự nhiên còn gọi là tiêu cư 1X trên máy compact. Cành và vật ở góc của tầm ảnh không bị méo xxxKhi vật quá gần máy ảnh phải có khả năng macro. Tât cả máy ảnh kỹ thuật số hiên nay đều có. Macro là cách làm cho cho ống kính bị cận thị và giữ focus khi đối tượng mục tiêu quá gần, như gần hơn 30 cm.
Tóm lại điều cần ghi nhớ:
- Thể loại phong cảnh: dùng tiêu cự ngắn, từ 18 đến 35 mm, góc độ bao phủ trên 60°
- Thể loại chân dung: dùng tiêu cự 80 mm tối hảo để tránh bóp méo nét mặt dù nhỏ
- Thể loại hoạt cảnh: tiêu cự tư nhiên, 50 mm
- Thể loại tỉnh vật dùng tiêu cự tư nhiên, 50 mm
Khẩu độ là đường kính của lổ cho ánh sáng vào máy ảnh, đơn gian là vậy, phải không? Đáng lẽ là vậy, nhưng... vì 1. là, thông số này tỷ lệ thuận với lượng ánh sáng vào máy ảnh, 2. là lượng ánh sáng này còn tùy thuộc tiêu cự của ống kính. Thể nên khẩu độ nhiếp ảnh phải thay 1 đương kính bằng mm bằng 1 con số tỷ lệ, mà tỷ lệ ngược!
Hình 6.
Đây dùng một ông kính cổ (1990), đóng mở con ngươi bằng tay. Lây tiêu cự của ống kính này chia cho đường kính của con nguoi sẽ ra số f-stop . Ta lấy con số này đánh giá khậu độ, phải hiểu là vây thôi, và nhớ là số cáng lớn khẩu độ nhiếp ảnh càng nhỏ. Xem hình dưới.
Vặn nhỏ con ngươi này sẽ cho số f-stop lớn hơn vì phương trình này. Vậy thì f-stop càng nhỏ càng nhiều ánh sáng sẽ được cho vào, và ngươc lại.
Ông kính với f-stop 1:1 là ống kính rất sáng, chụp hình hiện trường hiện vật đươc sắc nét trong thời gian phơi sáng ngắn nhất. Đó là một ông kính "nhanh", Eng. fast lens . [3*] Fast lenses thường mắc tiền nhất vỉ thủy tinh lớn và nhiều. Ngươc lại ông kính f-stop là 1:8 là ống kính tối, cho hình thiếu ánh sáng và không sắc nét được trong nội thất hay chiều tối.
2b. Khẩu độ và chiều sâu của focus
Khẩu độ còn quyết định một thông số là (Eng.) depth-of-field. Dof dịch ra là chiều sâu của hiện trường quanh mục tiêu đã focus rõ nét.
Điều tiết tiêu điểm. (Eng.) to focus: chọn một muc tiêu trong khung hình và điều chỉnh cho rõ nét mục tiêu đó trong khung hình (lúc ngắm hình trong máy ảnh). Khi có 1 mục tiêu là tiêu điểm rồi, khoảng cách truoc và sau tiêu điẻm đó đươc rõ nét cùng theo tiêu điểm gọi là chiều sâu Dof.
Trong hình 21. dưới đây các bạn thấy lọ số 3 và 4 là rõ nét focus, truoc sau đó thì nhòa. Dof là khoảng cách a bao phù 2 lọ đó. b bao phủ cả 5 lọ: Dof b sâu hơn a.
Điều chỉnh f-stop lớn làm Dof ngắn lại, f-stop nhỏ làm chiều sâu Dof dài ra.
Dof cần triển khai xử dụng khi nào mính muốn xóa nhòa hâu cảnh hay tiền cảnh để tập trung chú ý của người xem vào một muc tiêu, như trong chân dung, tình vật, hình chim thú v.v...
3 - Thời gian phơi sáng: Shutter speed
Speed là vận tốc, là một tỷ lệ chiều dai trên thời gian. Cách gọi sai này đã đi vào nhiếp ảnh và là như thế. Tiếng Anh gọi thời gian phơi sáng (TGPS) hay thời gian trình sáng là (Eng.) shutter speed hay đúng hơn là (Eng.) exposure time, là thời gian mở lổ cho ánh sáng vào máy, tức cham phim, đo bằng giây. Hoặc thực tế hơn, là phần 100 hay 1000 cùa 1 giây, thí dụ 1/1000, 1/10, 1/2 s. Chữ s là 1 giây. Chổ này dễ hiểu và không có gì để bàn, ngoài việc là phim phơi sáng lâu sẽ sắc nét rồi sẽ mau nhòa vì lương áng sáng tăng theo thời gian, làm "chói" ành. Nếu dùng đúng ISO thì phơi sáng ngắn dùng để chụp thể thao, hay con nít di động nhiều trong thể loại hoạt cảnh.
4 - ISO:
ISO là Internationnal Standards Organization, là một mã số võ đoán áp dụng cho nhiều ngành công nghệ công nghiệp. Trong nhiếp ảnh là một thông số ấn định độ nhạy của tấm phim hay cảm ứng, số càng lớn cảm ứng càng nhạy với anh sáng. Thí dụ ISO 100 là vừa nhạy để chụp ngoài trời nắng, số 2000 là ít nhạy để chụp trong bóng tối.
Tóm lại điều cần ghi nhớ:
- f-stop số lớn : con ngươi (Eng. diaphragm) nhỏ: dùng chụp chổ nhiều ánh sáng.
- f-stop số nhỏ: con ngươi mở lớn, dùng chụp chổ ít ánh sáng.
- Cùng 1 độ sáng, f-stop lớn làm chiều sâu Dof ngắn lại, và ngược lại.
- Shutter speed nhỏ: dùng khi hiện trường nhiều ánh sáng hay mục tiêu di động.
- Shutter speed lớn hơn: dùng khi hiện trường ít ánh sáng.
- ISO lớn dùng cho cảnh quan tối như nội thất.
- ISO nhỏ dùng chụp trong không gian sáng như ngoài trời nắng.
4 thông số cơ bản này trừ tiêu cự là hoàn toàn do người dùng quyết định tùy theo khung hình mình muốn, tức còn 3: khẩu độ, f-stop, và thời gian phơi sáng tùy thuôc nhau rất mật thiết, người dùng quyết định hay tốt nhất là nhờ vi tính của máy ảnh. Sẽ bàn sau.
Hiện này do công nghệ điện tử cao, gần hết máy ảnh có nhiều chế độ tự đông, máy ảnh sẽ quyết đinh 3 thông số đó khi bạn đưa máy lên bấm nút chụp. Có thể tất cả các thông số trên trừ tiêu cự là do máy "lo" đươc và quyết định dựa trên 4 thể loại trên.Đó là chế độ AUTO. Có chế độ máy tự lo tính f-stop, phơi sáng và ISO nên bạn có thể để tâm chú ý phần mỹ thuật thôi. Nhập môn nhiếp ành nay là rất dễ và it tốn thời gian học tập. Nhưng PHẢI học tập tìm hiểu. Đưa máy điện thoại lên chụp ra tấm hình là không phải thực hành nhiếp ảnh. Hay là chụp lời giải đề thi để gian lận 😈
1^. Bạn nhìn thẳng vào một điểm trước mặt và giang 2 cánh tay ra hai bên, đưa ngón trỏ 2 bên lên, nhúc nhích và từ từ khép 2 tay tới trươc mặt. Bạn sẽ ý thức được, sẽ thấy được 2 ngón trỏ hai bên khi 2 cánh tay giang một góc 120° (mà chỉ khi ngón tay nhúc nhích).
2^. Hồi xưa film nhựa hóa học khổ film rộng 35 mm là chuẩn cho các đo đạt và thông số cho nên bây giờ vẩn giữ nguyên chuẩn đó. Hiện nay máy ảnh đắt tiền có một miếng cảm ứng đo đúng 35mm, gọi là full frame. Các thông số xưa và nay chỉ ứng với khổ cảm ứng 35 ly này. Các cảm ứng silicon nhỏ thua (máy nhỏ) phải tính ra số tương đương mà thôi.
3^. Ông kính nhanh, Eng. fast lens là ống kính cho ánh sáng vào nhiều, chỉ thế thôi. Nhanh có nghĩa là loại ống kính này cho phép cảm ứng thu đươc (ghi đươc giữ đươc) lương ánh sáng và từ đó hình thù thông tin trong một thời gian ngắn, giúp những mục tiêu di đông đươc rõ nét không bị mờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét